Hiện nay, với nhu cầu sử dụng thực phẩm thịt bò ngày càng cao, cùng với sự phát triển của khoa học đã cho ra đời nhiều giống bò thịt như: giống bò lai, giống bò siêu thịt,… với đặc điểm và khả năng năng sinh trưởng khác nhau đang được chăn nuôi phổ biến và rộng khắp khắp các miền trong cả nước.
Bài viết này sẽ giới thiệu đến bà con các giống bò nổi tiếng trên thế giới cũng như các giống bò thịt ở Việt Nam để giúp bà con có thể lựa chọn cho mình giống bò tốt nhất hiện nay phù hợp với điều kiện chăn nuôi :
Các giống bò nội tại việt nam
Bò Vàng Việt Nam
Bò vàng hay còn gọi là giống bò ta, bò lừa để gọi chung một số nhóm bò vàng ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Nghệ An, Ninh Thuận, Bình Thuận…
Bò giống Việt Nam có lông màu vàng nhạt, không có u. Ưu điểm là thích nghi tốt với điều kiện thời tiết khí hậu Việt Nam, phương thức chăn nuôi đơn giản, có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có, phụ nông nghiệp, chịu kham khổ khi thiếu nguồn thức ăn. Đặc biệt, bò vàng Việt Nam chống bệnh rất tốt, chịu được các loại ve, bệnh, các bệnh ký sinh trùng.
Khả năng sinh sản của bò tốt. Bò cái nếu được chăm sóc tốt có thể phân phối giống đầu tiên lúc 20 tháng tuổi, chu kỳ mỗi lứa từ 12 – 13 tháng, Tỷ lệ nuôi sống bê con cao đến 95%.
Tuy nhiệt nhược điểm của giống bò thịt này là không thể đáp ứng nhu cầu chăn nuôi đêm năng suất cao, chăn nuôi theo các mô hình trại vì tốc độ sinh trưởng chậm, thân hình nhỏ, sản lượng thịt và sữa thấp. Trọng lượng con trưởng thành khoảng 170 – 260kg/con. Tỷ lệ thịt xẻ của bò chỉ đạt từ 43 – 44%.
Khối lượng thịt bỏ đầu, chân, da, nội tạng từ 75 – 80kg/con, khối lượng thịt tinh sau khi lọc khung đạt từ 60 – 65kg/con. Sản lượng sữa của giống bò vàng Việt Nam cũng thấp, chỉ từ 300 – 400kg trong một chu kỳ từ 6 – 7 tháng.
Bò H’Mông
Một trong những giống bò được nuôi nhiều ở bản của người H’Mông khu vực miền núi phía Bắc đó chính là giống bò H’Mông.
Ngoại hình giống bò này gần giống với giống bò Vàng Việt Nam nhưng có tầm vóc lớn hơn, Tỷ lệ thịt cao hơn so với giống bò Vàng Việt Nam. Giống bò này thích nghi với điều kiện dinh dưỡng, khí hậu, môi trường, thổ nhưỡng khu vực rừng núi nên rất thích hợp cho bà con các vùng miền núi. Hiện nay món thịt bò H’Mông đã được đăng ký thương hiệu tại khu vực Cao Bằng.
Các giống bò lai ở việt nam
Bò Lai Sind
Giống bò Lai Sind được đặt tên chung cho 1 nhóm bò thịt giống lai tạo ra từ nhóm bò lai Zebu (Red Shindhy, Sahiwal, Brahman vv…) với bò Vàng Việt Nam. Nhóm các giống bò lai này mang ngoại hình trung gian giữa bò Vàng địa phương và bò Zebu. Không kiểm soát được công tác phân phối giống nên hiện nay nhóm bò Lai Sind có dáng, ngoại hình, màu lông không đồng nhất.
Các giống bò hiện nay được nuôi phổ biến và được coi là tốt nhất là nhóm có lông màu đỏ gián điệp. Nhóm bò Lai Sind có tầm nhìn lớn hơn và tỷ lệ thịt cao hơn so với bò Vàng. Khối lượng trưởng thành của bò khoảng 250 – 450kg.
Bò Lai Sind do lai tạo với bò Vàng nên có khả năng thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nước ta và khả năng sinh sản, cày kéo tốt, tuy nhiên lại đòi hỏi mức dinh dưỡng cao hơn bò Vàng. Giống bò này thích hợp nuôi ở các vùng đồng bằng, duyên hải ven biển và trung du.
Giống Bò lai Drought Master
Đây là giống bò lai từ bò lai Drought Master với bò cái Lai Sind. Bò lai Drought Master có tầm nhìn lớn, lông màu vàng thúy giống bò Lai Sind, lớn nhanh và tỷ lệ thịt cao. Với điều kiện chăm sóc tốt bò nuôi khoảng 2 năm có thể đạt trọng lượng khoảng 450 – 500kg, cho tỷ lệ màng lọc đạt 41 – 43%.
Giống bò lai Drought Master có khả năng đào thải mồ hôi qua da tốt nên thích nghi được với khí hậu nhiệt đới, phù hợp để chăn nuôi theo mô hình trang trại. Hiện giống bò này đang được đặt tại 1 số tỉnh thành như Vĩnh Phúc, Hà Nội, Đăk Lăk, Bình Dương.
Giống Bò lai Red Angus
Là giống bò lai được tạo ra khi phân bổ giữa bò lai Red Angus với bò cái Lai Sind. Màu lông đặc trưng của giống bò này là màu xen lẫn màu gián, có những mảng tối ở hai bên cổ, dọc và u vai. Trọng lượng cơ thể bò lai trung bình từ 370 – 450kg/con, cơ thể bò cái trung bình từ 300 – 350kg/con. Tỷ lệ thịt xẻ thu được đạt từ 48 – 50%.
Ngoài ra, giống bò này còn cho sản lượng sữa cao từ 1.250 – 1.800kg/chu kỳ vắt sữa 240 – 270 ngày. Nếu được cung cấp nguồn dinh dưỡng đầy đủ dinh dưỡng, một số con có thể cho 5.000kg sữa/ chu kỳ. Tỷ lệ mỡ sữa từ 4 – 5%.
Giống bò này thích hợp nuôi ở những vùng có điều kiện đất đai trồng cỏ tốt và người chăn nuôi chịu đầu tư công thức ăn tinh vì bò lớn nhanh nên đòi hỏi dinh dưỡng cao.
Các giống bò trên thế giới
Giống Bò Sahiwal
Giống bò này có nguồn gốc từ Pakistan, được nuôi rộng rãi ở các nước Pakistan, Ấn Độ, Châu Phi, Châu Á, Mỹ la tinh, là giống bò có thể cho sữa thịt. Bò có màu vàng sẫm, màu vàng hơi đỏ tối, một số có màu vàng như bò Việt Nam, thân chắc chắn.
Trọng lượng con trưởng thành đạt khoảng 350 – 500kg. Năng suất sữa bình quân ở bò cái 2.100 – 2.200kg trong chu kỳ vắt sữa 270 – 280 ngày, Tỷ lệ mỡ sữa trên 52%, Tỷ lệ thịt xẻ là 50%.
Giống bò Brahman
Bò Brahman là giống bò thịt nhiệt đới, được nuôi rộng rãi ở tất cả các vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Thường sẽ có bộ lông màu trắng xám hoặc trắng ghi, người ta cũng đã chọn bộ lọc được các dòng màu đỏ Bradman.
Bò có ngoại hình chắc chắn, bền vững, hệ cơ phát triển, vai trò phát triển, tài chính và hạ tầng. Khối lượng trưởng thành: Bò cái khoảng 380kg và bò đực khoảng 600-650kg, năng suất sữa thấp: 600-700kg/chu kỳ, Tỷ lệ xẻ thịt 52,5%.
Ngành nuôi bò mang được xem là nghề thoát nghèo cho bà con nông dân. Để chăn nuôi bò thành công, bà con phải chú ý nhiều đến công việc làm sao để lựa chọn được con bò giống tốt. Không chỉ thế bà con còn phải quan tâm đến kỹ thuật chăn nuôi phù hợp với từng loại giống bò.
Hiện nay, với việc đưa công nghệ cao vào chăn nuôi sẽ giúp bà con nông dân giảm thiểu chi phí cũng như thời gian cho từng nhiệm vụ.
Không những vậy việc áp dụng mô hình chăn nuôi công nghệ cao giúp giảm thiểu sức lực cho người lao động, thậm chí trước kia mỗi người chỉ chăm sóc được 1 chuồng nuôi thì nay người có thể điều khiển hệ thống chăm sóc cả một chuồng trang trại chăn nuôi.
Bên cạnh đó những mô hình này đang ngày càng được cải tiến, nâng cấp độ chính xác, tốc độ làm việc và chi phí tối ưu nên được xem là xu hướng tích cực cho ngành chăn nuôi tại Việt Nam.